문헌자료[판결문] 퐁니·퐁녓 사건 응우옌티탄 국가배상소송 1심 판결문(2023년 2월) 베트남어 번역본



베트남전 퐁니·퐁녓 민간인학살 사건 관련 
원고 응우옌티탄의 국가배상소송 1심 판결문(2023년 2월) 베트남어본을 공유합니다. 
판결문 원본에서 비실명화된 버전을 번역한 것입니다. (첨부파일 다운로드)

번역가 응우옌 응옥 뚜옌 님과 박경철 님께 진심으로 감사드리며
모금 "베트남전 민간인학살 재판 승소 판결문을 세계인들에게"를 통해 (모금 기간 2023.03.21~2023.06.05)를 통해
번역비 마련에 참여해주신 분들에게도 감사의 인사를 드립니다.


* * * * * * * * * * * *

Thư ngỏ


V/v chia sẻ bản dịch tiếng Việt của Bản phán quyết sơ thẩm Vụ kiện đòi bồi thường Quốc gia về Vụ thảm sát thường dân trong Chiến tranh Việt Nam



Kính gửi :  Các cơ quan, Bảo tàng và trường Đại học tại Việt Nam

 

‘Mạng lưới Xã hội Dân sự để Giải quyết chính đáng về Vấn đề Chiến tranh Việt Nam’ xin kính gửi lời chào trân trọng và lời chúc sức khỏe đến Quý lãnh đạo, cán bộ viên chức của các cơ quan, Bảo tàng và trường Đại học tại Việt Nam.

 

Mạng lưới Xã hội Dân sự để Giải quyết chính đáng về Vấn đề Chiến tranh Việt Nam’ (gọi tắt là Mạng lưới) là một mạng lưới đoàn kết gồm nhiều cá nhân như luật sư, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động và nghệ sĩ cũng như các đoàn thể dân sự khác nhau, họ cùng nhau phản tỉnh và hành động cho những vấn đề về Chiến tranh Việt Nam. Kể từ năm 2020, chúng tôi đã thực hiện các hoạt động nhằm xác minh sự thật về những vấn đề xảy ra trong Chiến tranh Việt Nam. Và cũng bắt đầu từ thời gian này, Mạng lưới đã hỗ trợ bà Nguyễn Thị Thanh - một nạn nhân sống sót trong vụ thảm sát Phong Nhất - Phong Nhị ở tỉnh Quảng Nam trong vụ kiện đòi bồi thường quốc gia đối với đối tượng là Chính phủ Hàn Quốc.

 

Ngày 7 tháng 2 năm 2023, Tòa án quận trung tâm Seoul, Hàn Quốc đã ra phán quyết thắng kiện cho nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thanh - nạn nhân của vụ thảm sát thường dân trong Chiến tranh Việt Nam ở phiên xét xử sơ thẩm vụ kiện đòi bồi thường quốc gia với bị đơn là nhà nước Đại Hàn Dân Quốc. Phán quyết này có ý nghĩa quan trọng bởi đây là lần đầu tiên một cơ quan chính phủ của Hàn Quốc thừa nhận sự thật và trách nhiệm của Chính phủ Hàn Quốc đối với các vụ thảm sát thường dân của quân đội Hàn Quốc trong Chiến tranh Việt Nam.

 

Mạng lưới đã dịch toàn văn phán quyết sang tiếng Việt, tiếng Nhật và tiếng Anh để chia sẻ thông tin chi tiết về phán quyết với mọi người trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Chúng tôi mong rằng bản dịch của phán quyết này sẽ được gửi đến các cơ quan chính phủ, viện bảo tàng, luật sư, nhà sử học và nhà báo ở Việt Nam. Cùng với đó, mạng lưới cũng hy vọng rằng sự quan tâm và nghiên cứu về vấn đề tìm ra sự thật của Chiến tranh Việt Nam, bao gồm cả vụ kiện bồi thường quốc gia này, sẽ được mở rộng. Quý vị có thể tải xuống bản gốc của phán quyết (bằng tiếng Hàn) và bản dịch tiếng Việt, tiếng Nhật và tiếng Anh ở đường link dưới đây. Bản dịch này được dịch từ nguyên văn của phán quyết và là phiên bản đã ẩn danh các đối tượng liên quan.

 

- Link tải bản phán quyết: https://url.kr/6yrvmf

 

Xin kính chúc các Quý lãnh đạo, Cán bộ viên chức của các cơ quan, Bảo tàng và trường Đại học tại Việt Nam nhận được email này có thật nhiều sức khỏe và bình an. Xin chân thành cảm ơn.

 

 

Mạng lưới Xã hội Dân sự để Giải quyết chính đáng về Vấn đề Chiến tranh Việt Nam





* * * * * * * * * * * * * * 



TÒA ÁN QUẬN TRUNG TÂM SEOUL

PHÁN QUYẾT



Vụ việc            :           Bồi thường thiệt hại (quốc gia) 2020Gadan5110659

Nguyên cáo     :           Nguyên cáo (         

                                    Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 

                                    Đại diện tố tụng

Bị cáo              :           Đại Hàn Dân Quốc

158 đường Banpoquận Seocho, Seoul (Văn phòng công tố cấp cao Seoul, phường Seocho)

Địa điểm chuyển phát       Văn phòng tố tụng số 1, Văn phòng Công tố tối cao Seoul, phường Seocho 3, quận Seocho, Seoul

Người đại diện về mặt pháp luật  Ông Han Dong-hoon, Bộ trưởng Bộ Tư pháp 

Đại diện tố tụng Cơ quan Tư pháp chính phủ Hàn Quốc

Kết thúc tranh luận :   15.11.2022

Tuyên bố phán quyết:  7.2.2023

 

QUYẾT ĐỊNH


1. Bị cáo phải bồi thường 30,000,100 won cho nguyên cáo, trong đó, từ ngày 15 tháng 11 năm 2022 đến ngày 27 tháng 2 năm 2023 phải trả theo tỷ lệ 5% /năm, từ ngày tiếp theo đến khi hoàn tất bồi thường phải trả theo tỉ lệ 12% /năm.

2. Bác bỏ các yêu cầu còn lại của nguyên cáo.

3. Chi phí tố tụng do bị cáo chịu.

4. Khoản 1 có thể được chấp hành tạm thời.

 

MỤC ĐÍCH YÊU CẦU


Bị cáo phải bồi thường 30,000,100 won cho nguyên đơn và số tiền này được chi trả theo tỷ lệ 12% trên một năm, kể từ ngày tiếp theo sau khi chuyển giao bản sao tố trạng của vụ việc đến khi hoàn tất bồi thường.


 

LÝ DO


1. Cơ sở sự thật


a. Ngay sau khi Chiến tranh Thế giới Lần thứ 2 kết thúc, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập tại Hà Nội, Việt Nam. Và giữa thế lực của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Pháp đã nổ ra cuộc Chiến tranh Việt Nam lần 1, kéo dài suốt 8 năm. Khoảng tháng 7 năm 1954, Hiệp định đình chiến được kí kết, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, phía Bắc là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (gọi tắt là “miền Bắc”) và phía Nam là nước Việt Nam Cộng Hoà (gọi tắt là “miền Nam”). Không lâu sau khi bị chia cắt, lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (gọi tắt là “Việt Cộng”) do miền Bắc chi viện đã nổi dậy, và khoảng tháng 12 năm 1961, Mỹ quyết định viện trợ kinh tế và quân sự cho miền Nam, từ đây, cuộc Chiến tranh Việt Nam lần 2 (gọi tắt là Chiến tranh Việt Nam) đã bùng nổ.

b. Trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳ can dự vào Chiến tranh Việt Nam dưới hình thức phái binh chủ yếu là các đoàn cố vấn quân sự, cũng như ném pháo kích xuống miền Bắc. Từ khoảng tháng 2 năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu gửi lính chiến đấu quy mô lớn và chính thức tham gia vào Chiến tranh Việt Nam. Mặt khác, từ tháng 7 năm 1964, chính quyền miền Nam Việt Nam kêu gọi viện trợ từ nhiều quốc gia khác nhau, trong đó có Đại Hàn Dân Quốc, và kể từ tháng 9 năm 1964, Hàn Quốc bắt đầu gửi các đội y tế và công binh sang Việt Nam. Về sau, theo yêu cầu phái binh của miền Nam Việt Nam và Mỹ, tháng 10 năm 1965, Đại Hàn Dân Quốc đã gửi sư đoàn thủ đô là đơn vị Mãnh Hổ, đơn vị Thập Tự Tinh, đơn vị Rồng Xanh thuộc Lữ đoàn 2 thuỷ quân lục chiến; tháng 9 năm 1966 gửi đơn vị Bạch Mã thuộc Sư đoàn 9 đến các vùng như Quy Nhơn, Cam Ranh, Nha Trang v.v. Kể từ thời điểm đó cho đến khi rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1973, quân đội Hàn Quốc đã thi hành nhiệm vụ trên khắp các vùng của Việt Nam.

c. Nguyên cáo (-) sinh vào tháng 7 năm 1960, là người mang quốc tịch của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (gọi tắt là Việt Nam). Nguyên cáo sinh ra ở thôn Phong Nhị (làng Phong Nhị) xã Thanh Phong (từ sau năm 1975 đổi tên thành phường Điện An và được duy trì đến bây giờ), huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, và hiện cũng đang sống tại đây. Cha của nguyên cáo là A đã mất vào năm 1967. Ở thời điểm tháng 2 năm 1968, gia đình nguyên cáo có mẹ là B (1934), anh trai C (1953), chị gái D (1957), và em trai E (1963).

d. Làng Phong Nhị ở thời điểm năm 1968 là một làng quê nhỏ thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nằm cách Đà Nẵng – thành phố lớn thuộc miền Trung Việt Nam, khoảng 25km về phía Nam, nằm dọc theo Quốc lộ 1A chạy qua huyện Điện Bàn nối ra Đà Nẵng. Dọc theo Quốc lộ 1A kéo dài từ Nam chí Bắc của Việt Nam, lính thuỷ đánh bộ Mỹ và lực lượng nghĩa quân của Việt Nam Cộng hoà phối hợp với nhau tạo thành các trung đội liên minh tác chiến (CAP, Combined Action Platoons, là các trung đội được tổ chức thành các đơn vị riêng, nhỏ lẻ để thu thập thông tin tình báo) và đóng quân ở đây.

e. Ngày 31 tháng 1 năm 1968, rạng sáng mồng Một Tết âm lịch, lực lượng quân giải phóng và Việt Cộng đã nổi dậy tổng tiến công trên toàn mặt trận (cuộc Tổng tiến công Tết âm lịch). Đã dự đoán trước hành động này của miền Bắc, lính Mỹ và lính Cộng hoà đã tổ chức phản công gây nên một cuộc giao chiến kịch liệt trên toàn Việt Nam.

f. Ngay sau khi đơn vị Rồng Xanh thuộc Lữ đoàn 2 thuỷ quân lục chiến của quân đội Hàn Quốc (Lữ đoàn 2 thuỷ quân lục chiến) di chuyển lực lượng từ khu căn cứ Chu Lai ra Hội An theo kế hoạch tác chiến Phi Long, ngày 30 tháng 1 năm 1968, quân đội miền Bắc vi phạm thoả thuận đình chiến, lên kế hoạch tổng tiến công quy mô lớn, dự định đánh ra phía Bắc, chiếm Hội An, Điện Bàn và đánh tiến công ra Đà Nẵng.

g. Theo đó, sau khi tổ chức phòng ngự trước đòn tấn công của quân giải phóng và Việt Cộng trong cuộc tổng tiến công Tết âm lịch nổi dậy ở một dải Quảng Nam (Hiếu Nhơn, Điện Bàn, Duy Xuyên) là khu vực thuộc trách nhiệm chiến thuật của Lữ đoàn 2 thuỷ quân lục chiến, Lữ đoàn đã đánh đuổi quân lực miền Bắc, tiếp đó liền thực hiện kế hoạch Quái Long 1 nhằm tìm kiếm và tiêu diệt lực lượng tàn binh của quân địch. Tác chiến Quái Long 1 được tiến hành từ 30 tháng 1 năm 1968 kéo dài đến 29 tháng 2 cùng năm, trong quá trình đó, Lữ đoàn 2 thuỷ quân lục chiến phối hợp cùng quân đội Mỹ trong cuộc tác chiến Nut Cracker, đưa dân rời khỏi làng dồn vào các ấp chiến lược để triển khai tác chiến chân không (a vacuum operation) nhằm truy bắt Việt Cộng đang ẩn náu trong các làng quê.

h. Nguyên cáo chủ trương rằng những người lính thuộc Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn 2 Thuỷ quân lục chiến Hàn Quốc (Đại đội 1 của vụ việc) vào ngày 12 tháng 2 năm 1968 đã cố ý dùng súng gây sát thương lên nguyên cáo và anh trai của nguyên cáo là C là thường dân, đồng thời giết chết những người thân còn lại trong gia đình nguyên cáo. Vì vậy, ngày 21 tháng 4 năm 2020, nguyên cáo đã khởi kiện bị cáo để yêu cầu trách nhiệm bồi thường ở cấp độ quốc gia.


[Căn cứ nhận định] sự thật không có tranh cãi, chứng cứ số 10, 11, 16, 30, 33, 42 của bên nguyên, nội dung chính của toàn bộ tranh luận.

 


2. Quyết định về phản đối sơ bộ


A. Phần tranh luận của bị cáo


1) Điều 19 trong Thỏa thuận công tác Quân sự Hàn Quốc - Miền Nam Việt Nam, được ký ngày 5 tháng 9 năm 1965 giữa Hàn Quốc và Miền Nam Việt Nam, quy định bất kỳ thiệt hại nào đối với người dân miền Nam Việt Nam do quân đội Hàn Quốc gây ra sẽ được bồi thường theo thoả thuận giữa hai nước Hàn Quốc và miền Nam Việt Nam. Thỏa thuận trên không cho phép việc một công dân Miền Nam Việt Nam đệ đơn kiện trực tiếp lên tòa án Hàn Quốc như vụ việc này.

2) Hơn nữa, Thỏa thuận công tác bổ sung Hàn Quốc – Hoa Kỳ dựa theo Điều 15 của Thỏa thuận công tác quân sự Hàn Quốc - Hoa Kỳ có quy định “các vụ việc đòi bồi thường thiệt hại do quân đội Hàn Quốc đồn trú tại Việt Nam gây ra trong các hoạt động phi chiến đấu sẽ được giải quyết thông qua Văn phòng Khiếu nại Quân đội Hàn Quốc đóng tại Việt Nam, bảo đảm chi trả sẽ do Hoa Kỳ thực hiện”. Thỏa thuận cũng nêu rõ: “Những vụ việc tố tụng chiến đấu, tức những vụ việc liên quan đến thiệt hại của chính phủ hoặc cá nhân thuộc Miền Nam Việt Nam phát sinh trong quá trình quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam chuẩn bị tác chiến, tác chiến và sau tác chiến, sẽ được uỷ thác cho chủ tịch phường, quận trưởng, tỉnh trưởng tại nơi xảy ra sự việc tố tụng” để giải quyết..

3) Theo thỏa thuận nêu trên, vụ việc này do nguyên cáo, lúc đó là công dân miền Nam Việt Nam, kiện lên tòa án Hàn Quốc mà không tuân theo thủ tục thỏa thuận giữa các chính phủ là không hợp pháp.

 

B. Nhận định


1) Theo ghi chép trong chứng cứ số 1 và số 2 của bị cáo, có thể công nhận các sự thật sau.

j Thỏa thuận công tác quân sự Hàn Quốc - Miền Nam Việt Nam được ký kết vào ngày 5 tháng 9 năm 1965 bởi Thiếu tướng Lục quân Hàn Quốc F và Thiếu tướng Lục quân miền Nam Việt Nam G, và ngày hôm sau, thỏa thuận công tác quân sự Hàn Quốc - Hoa Kỳ cũng được ký kết bởi Thiếu tướng Lục quân Hàn Quốc F và Thiếu tướng Lục quân Hoa Kỳ H. Đồng thời, Thỏa thuận công tác bổ sung Hàn Quốc - Hoa Kỳ cũng đã được ký kết bởi H từng là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam và I, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Quân đội Hàn Quốc.

k Điều 19 trong Thỏa thuận công tác Quân sự Hàn Quốc - Miền Nam Việt Nam quy định “các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại tài sản và nhân mạng của Chính phủ hoặc công dân nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam do cán bộ chủ chốt trong quân đội Hàn Quốc gây ra sẽ được quyết định dựa trên thỏa thuận riêng giữa chính phủ Hàn Quốc và Miền Nam Việt Nam.

l Điều 15 trong Thỏa thuận công tác quân sự Hàn Quốc - Hoa Kỳ quy định “Việc bồi thường thiệt hại về tài sản và nhân mạng của chính phủ hoặc cá nhân thuộc Miền Nam Việt Nam do quân đội Hàn Quốc gây ra trong các hoạt động chiến đấu hoặc phi chiến đấu được thực hiện theo văn bản thoả thuận riêng”, theo đó, Điều 1 và Điều 3 trong Thỏa thuận công tác bổ sung Hàn Quốc - Hoa Kỳ quy định “Bất kỳ khiếu nại nào liên quan đến bồi thường thiệt hại do quân đội Hàn Quốc đồn trú tại Việt Nam gây ra trong các hoạt động phi chiến đấu sẽ được giải quyết thông qua Văn phòng Khiếu nại Quân đội Hàn Quốc đóng tại Việt Nam và bảo đảm chi trả sẽ do Hoa Kỳ thực hiện. Điều 4 và 5 Phụ lục A Thỏa thuận công tác bổ sung Hàn Quốc - Hoa Kỳ quy định “Những vụ việc tố tụng chiến đấu, tức những vụ việc liên quan đến thiệt hại của chính phủ hoặc cá nhân thuộc Miền Nam Việt Nam phát sinh trong quá trình quân đội Hàn Quốc đồn trú tại Việt Nam chuẩn bị tác chiến, tác chiến hoặc sau tác chiến trở về đơn vị, sẽ được uỷ thác cho chủ tịch phường, quận trưởng, tỉnh trưởng của nơi xảy ra sự việc tố tụng” để giải quyết. (Dưới đây gọi chung là “các thỏa thuận công tác liên quan đến vụ việc này”).

2) Tuy nhiên, các thỏa thuận công tác liên quan đến vụ việc này chỉ là những thỏa thuận được thực hiện giữa các cơ quan quân sự của Hàn Quốc và miền Nam Việt Nam, Hàn Quốc và Hoa Kỳ, không thể xem là các điều ước do Đại Hàn Dân Quốc ký kết nên không được coi là có hiệu lực pháp lý để bác bỏ quyền khiếu nại của nguyên đơn, là công dân Việt Nam, đối với Hàn Quốc. Lý do cụ thể như sau:

j Điều 73 Hiến pháp Hàn Quốc quy định Tổng thống là người có quyền ký kết điều ước, Điều 7 Công ước Vienna về Luật Điều ước quốc tế, ngoài Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao hoặc đại diện quốc gia được cử đến tổ chức quốc tế thì chỉ những trường hợp xuất trình giấy uỷ nhiệm toàn quyền thích hợp thì mới được công nhận là người đại diện quốc gia có thể bày tỏ việc đồng ý chấp nhận những ràng buộc của quốc gia đối với điều ước. Nói cách khác, điều ước có hiệu lực chỉ khi được ký kết bởi một số đại diện nhất định của một quốc gia (hoặc những người được ủy quyền đại diện).

Tuy nhiên, không có căn cứ để công nhận những người ký kết Thoả thuận Công tác quân sự Hàn Quốc – Miền Nam Việt Nam và Thỏa thuận công tác quân sự Hàn Quốc – Hoa Kỳ, Thỏa thuận công tác bổ sung Hàn Quốc – Hoa Kỳ là người có quyền hạn chính đáng để ký kết điều ước (họ không phải là người có quyền ký điều ước và cũng không tìm thấy điều kiện xuất trình thư ủy quyền lúc ký kết các thỏa thuận công tác liên quan đến vụ việc này). Như vậy, các thỏa thuận liên quan đến vụ việc này chỉ đơn thuần là thoả thuận giữa các cơ quan về hoạt động quân sự của 3 nước và không được coi là có hiệu lực như điều ước quốc tế. Trên thực tế, các thỏa thuận liên quan đến vụ việc này cũng không được tìm thấy trong danh sách điều ước do Bộ Ngoại giao Hàn Quốc quản lý.

 k Điều 4 và Điều 5 Phụ lục A của Thỏa thuận công tác bổ sung Hàn Quốc – Hoa Kỳ quy định bất kỳ tố tụng chiến đấu nào về thiệt hại đối với người dân miền Nam Việt Nam do quân đội Hàn Quốc gây ra sẽ được uỷ thác cho chủ tịch phường, quận trưởng, tỉnh trưởng tại nơi xảy ra sự việc tố tụng giải quyết. Tuy nhiên, đây là thỏa thuận được thực hiện giữa Hàn Quốc và Hoa Kỳ, do đó cũng không thể coi là có hiệu lực ràng buộc trực tiếp đối với người dân Việt Nam.

l Điều 19 Thỏa thuận công tác quân sự Hàn Quốc - Miền Nam Việt Nam quy định những nội dung liên quan đến bồi thường cho các nạn nhân là người dân miền Nam Việt Nam sẽ dựa theo thỏa thuận riêng giữa chính phủ hai nước Hàn Quốc - miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, rất khó để tìm thấy bất kỳ trường hợp nào cho thấy một đàm phán và thỏa thuận riêng cụ thể nào đã được xây dựng như một biện pháp tiếp theo.

3) Chỉ với các thỏa thuận công tác liên quan đến vụ việc này, bao gồm cả Thỏa thuận công tác Quân sự Hàn Quốc – Miền Nam Việt Nam thì không thể coi rằng Chính phủ Miền Nam Việt Nam đã từ bỏ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của các nạn nhân là công dân Việt Nam hay các nạn nhân từ bỏ quyền đệ đơn tố tụng trực tiếp lên tòa án Hàn Quốc, bên cạnh phương thức bồi thường dựa theo thỏa thuận giữa các nước.

Vì những lý do này, phần ý kiến phản đối sơ bộ của bị cáo không được chấp nhận.


C. Nhận định về có hay không có sự bảo đảm lẫn nhau theo Điều 7 của Luật bồi thường Nhà nước


1) Bị cáo chủ trương điều 7 Luật bồi thường Nhà nước yêu cầu điều kiện phát sinh quyền tố tụng bồi thường Nhà nước đối với người nước ngoài là "Trường hợp nạn nhân là người nước ngoài thì phải có sự bảo đảm lẫn nhau với quốc gia đó", do đó phải so sánh các điều kiện phát sinh quyền bồi thường Nhà nước thông qua pháp lệnh, phán lệ của Việt Nam để xét xem có sự bảo đảm lẫn nhau giữa Hàn Quốc và Việt Nam hay không, và nếu sự bảo đảm lẫn nhau không được công nhận thì vụ việc này cần phải bác bỏ.

2) Nhằm ngăn chặn những bất lợi mà chỉ Hàn Quốc có thể gặp phải cũng như thúc đẩy sự công bằng trong quan hệ quốc tế, Điều 7 Luật bồi thường Nhà nước yêu cầu ‘Trường hợp nạn nhân là người nước ngoài thì phải có sự đảm bảo lẫn nhau với nước đó’ như là điều kiện phát sinh quyền yêu cầu bồi thường nhà nước của người nước ngoài. Tuy nhiên, việc yêu cầu điều kiện phát sinh quyền khiếu nại bồi thường Nhà nước đối với người nước ngoài tại quốc gia đó phải tương đương hoặc nới lỏng hơn so với Hàn Quốc sẽ dẫn đến việc hạn chế quá mức quyền khiếu nại bồi thường Nhà nước của người nước ngoài, điều này không chỉ không phù hợp với tình hình giao lưu, hợp tác quốc tế diễn ra thường xuyên như hiện nay mà còn đưa đến kết quả bất hợp lý là công dân Hàn Quốc tại nước ngoài sẽ bị từ chối bảo hộ. Khi xem xét những điểm này, nếu điều kiện phát sinh quyền khiếu nại bồi thường Nhà nước giữa Hàn Quốc và nước ngoài không có sự chênh lệch đáng kể, toàn bộ các điều kiện được quy định tại nước ngoài nhìn chung không quá nặng nề hơn so với Hàn Quốc và hầu như không có sự khác biệt ở những điểm quan trọng thì hoàn toàn có thể xem là đã đáp ứng điều kiện đảm bảo lẫn nhau được quy định trong điều 7 Luật bồi thường Nhà nước. Bên cạnh đó, chỉ cần sự đảm bảo lẫn nhau được công nhận sau khi so sánh điều kiện phát sinh dựa trên pháp lệnh, phán lệ, tiền lệ v.v của nước ngoài là đủ, đồng thời, không cần phải ký kết bất kỳ hiệp ước nào với nước có liên quan, ngay cả khi chưa từng có tiền lệ cụ thể nào công nhận khiếu nại bồi thường Nhà nước của công dân Hàn Quốc tại nước có liên quan thì vẫn đủ điều kiện để có thể trông đợi sự đảm bảo lẫn nhau được công nhận thật sự. (Tham khảo phán quyết 2013Da208338 tuyên án ngày 11 tháng 5 năm 2015 tại Tòa án Tối cao).

3) Điều 598 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định “Theo luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước, nhà nước phải bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ (người thi hành luật) gây ra”, Điều 2 và Điều 3 Luật Trách nhiệm Bồi thường Nhà nước Việt Nam quy định "Các cá nhân, tổ chức bị người thi hành công vụ gây thiệt hại về vật chất hoặc đau đớn về tinh thần có thể được nhận bồi thường", không phân biệt cá nhân được bồi thường là người trong hay ngoài nước [Bản tiếng Anh, bản tiếng Hàn và bản gốc của điều khoản tương ứng giống như ghi chép ở mục 1, mục 2 trong mục lục 1 đính kèm]. Hơn nữa, Hiến pháp Việt Nam quy định người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phải được bảo vệ tính mạng, tài sản, có quyền và lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam (Điều 30 và Điều 48 Hiến pháp Việt Nam), Điều 465 Luật Tố tụng dân sự Việt Nam và Điều 299 Luật Tố tụng hành chính quy định rằng người nước ngoài cũng có nghĩa vụ giống như công dân Việt Nam khi tham gia vào quá trình tố tụng, đồng thời bảo đảm cho quyền lợi và nghĩa vụ của người nước ngoài trong quá trình tố tụng. [Bản tiếng Anh, bản tiếng Hàn và bản gốc của điều khoản tương ứng giống với ghi chép từ mục 3 đến mục 5 trong mục lục 1 đính kèm].

4) Như vậy, điều kiện phát sinh quyền yêu cầu bồi thường Nhà nước theo Luật dân sự Việt Nam và Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước không khác biệt nhiều so với Luật bồi thường Nhà nước Hàn Quốc, do đó, có thể trông đợi vào việc quyền đòi bồi thường nhà nước của công dân Hàn Quốc sẽ được công nhận.

Do đó, có thể công nhận bảo đảm lẫn nhau giữa Hàn Quốc và Việt Nam theo điều 7 của Luật bồi thường Nhà nước.



3. Quyết định của luật thích hợp


A. Tóm tắt lập luận của các bên


Nguyên cáo chủ trương rằng ngày 12 tháng 2 năm 1968, quân đội Hàn Quốc đã cố tình bắn và làm bị thương nguyên cáo cùng anh trai (C) của nguyên cáo vốn là thường dân, giết hại các thành viên còn lại trong gia đình nguyên cáo và nguyên cáo đã đệ đơn kiện bị cáo đòi bồi thường Nhà nước.

Nguyên cáo cho rằng vì Luật bồi thường Nhà nước Hàn Quốc có liên quan nhiều nhất đến mối quan hệ pháp luật của vụ án này nên theo khoản 1 điều 8 trong Tư pháp quốc tế, cần phải áp dụng luật bồi thường Nhà nước Hàn Quốc làm luật thích hợp. Ngược lại, bị cáo lại chủ trương rằng do các hành vi bất hợp pháp mà nguyên cáo cáo buộc diễn ra tại thôn Phong Nhị, lúc bấy giờ là do chính phủ miền Nam Việt Nam cầm quyền nên theo khoản 1 Điều 32 của Tư pháp quốc tế, luật thích hợp trong vụ việc này phải là luật Miền Nam Việt Nam có hiệu lực vào thời điểm đó.

 

B. Nguyên tắc chỉ định luật thích hợp và ngoại lệ


1) Điều 3 phần quy tắc bổ sung trong Tư pháp quốc tế được thi hành ngày 5 tháng 7 năm 2022 và sửa đổi thành luật số 18670 vào ngày 4 tháng 1 năm 2022 (xử lý quá trình áp dụng luật thích hợp) quy định: “Luật thích hợp áp dụng cho các vấn đề phát sinh trước khi thi hành luật này được căn cứ theo quy định trước đó” nên đối với vụ việc này, luật thích hợp được áp dụng sẽ là điều 8 và điều 32 trong Tư pháp quốc tế trước khi sửa đổi (dưới đây gọi là "Tư pháp Quốc tế trước sửa đổi").

 2) Liên quan đến Luật thích hợp về hành vi bất hợp pháp, điều 32 Tư pháp quốc tế trước sửa đổi, ở khoản 1 có quy định “Hành vi bất hợp pháp được căn cứ vào luật tại nơi hành vi đó được thực hiện”, khoản 2 “Trong trường hợp tại thời điểm hành vi bất hợp pháp được thực hiện, nơi thường trú của người gây hại và nạn nhân thuộc cùng một quốc gia thì sẽ căn cứ vào luật pháp quốc gia đó và không tính đến quy định của khoản 1”, khoản 3 “Trường hợp quan hệ pháp luật tồn tại giữa người gây hại và nạn nhân bị xâm phạm bởi hành vi bất hợp pháp thì sẽ căn cứ vào Luật thích hợp của quan hệ pháp luật đó mà không cần tính đến quy định của khoản 1 và 2”. Điều 33 có quy định đối với các thoả thuận xảy ra sau vụ việc liên quan đến luật thích hợp, “các bên liên quan có thể dựa theo thỏa thuận sau khi phát sinh hành vi bất hợp pháp để chọn luật Hàn Quốc làm luật thích hợp mà không cần phải tính đến quy định của điều 32. Tuy nhiên, điều này không được ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba”.

Theo các quy định trên, Tư pháp quốc tế trước sửa đổi có nguyên tắc xét theo nơi chốn xảy ra hành vi bất hợp pháp (Tương tự điều 52 trong Tư pháp Quốc tế hiện hành), tuy nhiên, thỏa thuận sau khi xảy ra vụ việc của luật thích hợp (điều 33) được ưu tiên hàng đầu, tiếp theo là liên kết phụ thuộc (Khoản 3 Điều 32) và sau đó là Luật cá nhân cùng nơi thường trú, và với những trường hợp không thể áp dụng các khoản đặc biệt này, nguyên tắc căn cứ vào nơi thực hiện hành vi bất hợp pháp (Khoản 1 Điều 32) mới được áp dụng.

3) Mặt khác, khoản 1 Điều 8 Tư pháp quốc tế trước sửa đổi có quy định “Trường hợp Luật thích hợp được chỉ định dựa trên Tư pháp Quốc tế chỉ có một sự liên quan không đáng kể trong quan hệ pháp luật tương ứng, trong khi có tồn tại rõ ràng một hệ thống luật ở quốc gia khác liên quan mật thiết nhất với quan hệ pháp luật đó thì phải căn cứ vào luật của quốc gia khác đó”, đồng thời công nhận ngoại lệ trong việc chỉ định luật thích hợp.

 

C. Luật thích hợp được áp dụng trong sự việc này

1) Trong trường hợp của vụ việc này, do không có khả năng áp dụng Liên kết phụ thuộc (khoản 3 Điều 32) hay Luật cá nhân cùng nơi thường trú (khoản 2 Điều 32) nên luật thích hợp áp dụng trong vụ việc này được xác định có liên quan đến nguyên tắc xét theo nơi xảy ra hành vi bất hợp pháp (khoản 1 Điều 32), ngoại lệ trong việc chỉ định luật thích hợp (khoản 1 Điều 8) và thỏa thuận sau khi xảy ra sự việc của luật thích hợp (Điều 33).

2) Tổng hợp các trường hợp sau, có thể thấy luật có liên quan chặt chẽ nhất đến quan hệ pháp luật của vụ việc này là Luật bồi thường Nhà nước Hàn Quốc. Đồng thời, tùy vào lựa chọn của người thiệt hại cũng như thỏa thuận sau khi xảy ra sự việc giữa hai đương sự về luật thích hợp, trong trường hợp này, Luật bồi thường Nhà nước Hàn Quốc được xem là luật thích hợp để từ đó phải xác định xem có cấu thành hành vi bất hợp pháp hay không và có công nhận trách nhiệm bồi thường Nhà nước của bị cáo hay không.

① Nguyên tắc liên kết tất cả các luật thích hợp trong Tư pháp quốc tế đó là phải chỉ ra những luật có liên quan mật thiết nhất đến vụ việc. Tuy nhiên, vẫn có khả năng kết quả áp dụng các điều khoản trong Tư pháp quốc tế lại không phù hợp với những nguyên tắc trong những vụ việc cụ thể. Để phòng trừ những trường hợp như vậy và để đảm bảo áp dụng đúng nguyên tắc liên kết theo Tư pháp quốc tế, khoản 1 Điều 8 được xây dựng như một quy định ngoại lệ chung trong việc chỉ định luật thích hợp.

 ② Tư pháp quốc tế trước sửa đổi liên quan đến luật thích hợp đối với hành vi bất hợp pháp vẫn giữ nguyên tắc về nơi xảy ra hành vi bất hợp pháp, nhưng đồng thời lại dựa trên nguyên tắc Luật cá nhân cùng nơi thường trú (khoản 2 Điều 32), Liên kết phụ thuộc (khoản 3 Điều 32) và thỏa thuận sau khi xảy ra vụ việc của luật thích hợp (Điều 33), v.v. chỉ để phần nào nới lỏng nguyên tắc về nơi xảy ra hành vi bất hợp pháp. Tuy nhiên, Tư pháp quốc tế không có các điều khoản đặc biệt đối với đa dạng các loại hình hành vi bất hợp pháp nên cần phải áp dụng các điều khoản ngoại lệ để đưa ra được kết luận phù hợp nhất.

③ Luật thích hợp đối với hành vi bất hợp pháp quyết định sự cấu thành và hệ quả của hành vi bất hợp pháp. Do đó, năng lực hành vi phạm pháp, tính phạm pháp, quan hệ nhân quả, lý do quy kết trách nhiệm, người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, quyền đòi bồi thường giữa những người cùng thực hiện hành vi bất hợp pháp, phương pháp, loại hình, phạm vi, và số tiền bồi thường thiệt hại, cũng như thời hiệu của quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với hành vi bất hợp pháp v.v. cũng được quyết định bởi luật thích hợp.

④ Nguyên cáo chủ trương, việc những binh lính thuộc Đại đội 1 trong vụ việc này cố ý dùng súng gây sát thương nguyên cáo, là công dân Vệt Nam, và giết hại gia đình nguyên cáo trong quá trình tác chiến trong chiến tranh Việt Nam là hành vi bất hợp pháp và cho rằng bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Các binh lính thuộc Đại đội 1 trong vụ việc này là những công dân Hàn Quốc đã được chính phủ Hàn Quốc điều động đến Việt Nam và theo mệnh lệnh, đang thực hiện hàng loạt các hoạt động tác chiến tại Việt Nam.

Trường hợp các binh lính thuộc Đại đội 1 trong vụ việc này trong quá trình tác chiến quân sự tại Việt Nam vi phạm pháp lệnh, gây thiệt hại cho người khác, có thể thấy Luật bồi thường Nhà nước Hàn Quốc là luật quy định mối quan hệ pháp luật một cách hiệu quả và phù hợp nhất để truy cứu trách nhiệm bồi thường Nhà nước đối với bị cáo mà các bính lính đó trực thuộc. Luật bồi thường Nhà nước Hàn Quốc có mục đích quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và thủ tục bồi thường trong trường hợp công chức nhà nước (Hàn Quốc) hoặc chính quyền địa phương do cố tình hoặc do sơ suất vi phạm pháp luật và gây thiệt hại cho người khác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ (Điều 1 và Điều 2). Tuy nhiên, luật này lại không phân biệt nơi xảy ra hành vi bất hợp pháp là trong hay ngoài lãnh thổ Hàn Quốc. Hơn nữa, trong trường hợp người thiệt hại là người nước ngoài, luật cũng được áp dụng tương tự như đối với công dân Hàn Quốc nếu có sự đảm bảo lẫn nhau với quốc gia tương ứng (Điều 7).

⑤ Lý do Tư pháp quốc tế trước sửa đổi áp dụng nguyên tắc nơi xảy ra hành vi bất hợp pháp là vì việc xem xét điều kiện xã hội khi xảy ra hành vi bất hợp pháp và lấy ý thức pháp luật tại nơi đó làm tiêu chuẩn để quyết định và xử lý có thể nói là hợp lý và thực tế dựa trên lập trường công bằng hơn so với việc áp dụng luật trong nước để xử lý một cách đơn phương, hơn nữa, làm như vậy cũng sẽ đáp ứng được kỳ vọng của các bên (Tham khảo phán quyết 78Da1343, tuyên án ngày 13 tháng 11 năm 1979 tại Tòa án Tối cao Hàn Quốc). Nơi hành vi bất hợp pháp trong vụ việc này được thực hiện là ở Việt Nam, do đó có thể lấy ý thức pháp luật tại Việt Nam làm tiêu chuẩn để phán quyết và xử lý (nếu xét theo tình hình chính phủ tại thời điểm đó thì là Luật miền Nam Việt Nam, nếu dựa vào tình hình hiện tại thì là Luật Việt Nam), điều này cũng có thể xem xét đến lợi ích của nguyên cáo, là nạn nhân trong vụ việc này. Tuy nhiên, nguyên cáo đã từ bỏ lợi ích có được khi áp dụng luật pháp Việt Nam (miền Nam Việt Nam) và chủ trương lấy Luật Hàn Quốc làm luật thích hợp trong vụ án này. Việc một người bị hại lựa chọn luật thích hợp như thế này mà không không có lý do nào đặc biệt là điều đáng được tôn trọng.

⑥ Đối với luật Miền Nam Việt Nam, luật có khả năng trở thành luật thích hợp trong vụ việc này nếu tuân theo luật về nơi xảy ra hành vi bất hợp pháp, cả nguyên cáo và bị cáo không nộp bất kỳ tài liệu nào liên quan. Trong trường hợp tòa án đã tiến hành tất cả các cuộc điều tra chính thức nhưng luật nước ngoài vẫn không rõ ràng thì tòa án cũng không thể từ chối xét xử mà phải căn cứ theo thông lệ nước ngoài dựa trên nguyên tắc cơ bản về mặt dân sự liên quan đến nguồn gốc của luật. Trường hợp tòa án cũng không thể xác minh được luật lệ thông thường của nước ngoài, thì phải tuân theo lý lẽ hợp lý để xét xử (Tham khảo phán quyết 98Da25037 tuyên án ngày 9 tháng 6 năm 2000 tại Tòa án Tối cao Hàn Quốc). Trong trường hợp này, lý lẽ hợp lý như vậy dường như không khác nhiều so với các quy định trong Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước Việt Nam hiện hành hoặc Luật bồi thường Nhà nước Hàn Quốc.

⑦ Tư pháp quốc tế quy định về việc khiếu nại nói chung bao gồm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi bất hợp pháp gây ra, cho phép dựa trên thỏa thuận sau khi xảy ra vụ việc giữa các bên liên quan để chọn pháp luật Hàn Quốc (Luật của nước sở tại) làm luật thích hợp (Điều 33) và nếu thỏa thuận như vậy thì phải được ưu tiên thực hiện hơn các quy định khác. Những thỏa thuận sau khi xảy ra vụ việc này không cần phải tiến hành một cách rõ ràng mà có thể được thực hiện ngầm.

Nguyên cáo và bị cáo đang tranh chấp ở nội dung trong vụ tố tụng này hành vi phạm pháp cũng như trách nhiệm bồi thường nhà nước có được cấu thành hay không, cũng như thời hiệu của quyền tố tụng bồi thường thiệt hại do hành vi bất hợp pháp đã hết hạn hay chưa. Cả hai bên đều đang áp dụng luật Hàn Quốc làm tiền đề để lập luận (Liên quan đến thời hiệu quyền tố tụng bồi thường thiệt hại của nguyên cáo, bị cáo áp dụng Luật bồi thường Nhà nước làm tiền đề để chủ trương thời hạn hiệu lực dài là 5 năm, ngắn là 3 năm). Với thái độ và lập trường như vậy của nguyên cáo và bị cáo, có thể được hiểu là hai bên sau khi thoả thuận đã đồng ý chọn luật Hàn Quốc làm luật thích hợp để áp dụng.


4.  Quyết định dựa vào bản chất sự việc


A. Điểm chính liên quan đến lập trường của đương sự


1) Nguyên cáo

 a) Những binh lính không rõ danh tính thuộc Đại đội 1 trong vụ việc vào ngày 12 tháng 2 năm 1968, tại làng Phong Nhị, xã Thanh Phong, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Việt Nam đã cố ý dùng súng bắn vào nguyên cáo vốn là một thường dân, gây thương tích nghiêm trọng ở vùng bụng, giết chết hoặc gây sát thương các thành viên khác trong gia đình nguyên cáo.

 b) Những binh lính thuộc phía bị cáo cố ý dùng súng để bắn giết hoặc sát thương nguyên cáo cùng những người thân trong gia đình nguyên cáo, với hành vi đó, họ đã gây tổn hại đến phẩm giá, xâm hại đến tính mạng và thân thể con người. Do đó, bị cáo có nghĩa vụ phải bồi thường cho những thiệt hại về tinh thần mà nguyên cáo đã gánh chịu do hành vi của bị cáo gây ra.

2) Bị cáo

 a) Hầu hết những chứng cứ để nguyên cáo cho rằng người gây hại trong vụ việc là quân đội Hàn Quốc đều là lời kể của phía người bị hại, chỉ với những lời kể này thì khó để chứng minh rằng người gây hại là quân đội Hàn Quốc. Có khả năng trong thời gian Chiến tranh Việt Nam, những lực lượng cốt cán tâm lý chiến của Bắc Hàn đã triển khai nhiều hoạt động tâm lý chiến đa dạng lên quân đội Hàn Quốc trong đó có cả Lữ đoàn 2 thuỷ quân lục chiến, thậm chí họ cũng phối hợp với Việt Cộng để hoạt động nữa. Trong vụ việc này khó có thể loại trừ khả năng có sự can thiệp của lực lượng quân giải phóng, Việt Cộng và quân đội Bắc Hàn, ngay cả người dân trong làng cũng biết rằng lực lượng binh lính gây hại chính là lực lượng quân giải phóng, nên không thể đơn thuần cho rằng quân gây hại là quân đội Hàn Quốc được.

 b) Giả dụ cho rằng vụ việc này là do quân đội Hàn Quốc gây ra đi chăng nữa thì trong trường hợp có lý do chính đáng khiến nguyên cáo cùng gia đình nguyên cáo, kể cả những người dân trong làng Phong Nhị bị ngộ nhận là Việt Cộng hoặc là người bắt tay với Việt Cộng thì vụ việc cần phải được xem là hành vi chiến đấu phát sinh trong lúc giao chiến hoặc là hành vi chính đáng khi xét ở tình huống đó.

 c) Cho dù quyền khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại của nguyên cáo được công nhận thì do sự việc đã xảy ra quá lâu nên đã quá thời hiệu khiếu nại, quyền khiếu nại đã không còn.

 

B. Quyết định về trách nhiệm bồi thường Nhà nước


1) Các sự kiện được công nhận

Theo các hồ sơ số 10, 11, 13, 14, 16, 18, 21, 22, 23, 25 đến 30, 44, 45 bên nguyên (bao gồm cả những chứng cứ có số phụ), theo lời kể của các nhân chứng J, K, kết quả thẩm vấn với chính các đương sự về nguyên cáo, những sự thật sau đây được công nhận.

 a) Quân lính thuộc Đại đội 1 của vụ việc thuộc Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 2 thuỷ quân lục chiến Hàn Quốc trong ngày 12 tháng 2 năm 1968, trong khoảng thời gian 08:00 ~ 10:30 đã xuất phát từ căn cứ đại đội, theo Quốc lộ 1 di chuyển về phía Bắc đến gần điểm CAP D-2, tiếp đó kéo đến điểm giữa của CAP D-2 và CAP D-1 dọc Quốc lộ 1 (địa điểm nằm ở phía Đông làng Phong Nhị), sau đó rời khỏi Quốc lộ 1 và di chuyển về phía Tây.

 b) Đại đội 1 liên quan vụ việc này di chuyển về hướng Tây, trong khoảng 10:30 ~ 11:30, khi đang đi xuyên qua làng Phong Nhị thì bị bắn tỉa hàng chục phát đạn bắn ra từ hướng Tây Bắc, trong quá trình đó có 1 binh lính đã bị thương. Cũng cùng thời điểm đó, ở phía Quốc lộ 1, có một xe thiết giáp của quân đội Mỹ (LVT) đang cùng trong cuộc tác chiến cũng bị hư hại do chèn lên bẫy mìn.

 c) Sau khi bị bắn tỉa, trong khoảng từ 10:30~15:00, Đại đội 1 liên quan đến vụ việc đã triển khai tác chiến truy lùng khắp một vùng trong Phong Nhị, Phong Nhất và một nhóm thuộc đại đội này (theo suy đoán là Trung đội 1, 2 đi đầu) vào lục soát trong làng, lùa bắt người dân nấp trong nhà (chủ yếu là phụ nữ, người già và trẻ em) ra, tập trung ra một số bãi đất trống, sau đó chuyển giao lại cho tốp sau và tiếp tục theo kế hoạch tác chiến đã định tiến công đến tận Suối Cổ Cò nằm sâu về phía Tây, thành lập tuyến phòng ngự, cùng thời điểm đó, lực lượng chỉ huy đại đội và một nhóm của lực lượng bọc sau (theo suy đoán là Trung đội 3) đã bắn súng vào những người dân bị tập trung lại, rồi vừa tiến hành lục soát trong một phần của làng Phong Nhất, làng Phong Nhị, vừa nổ súng dân và đốt nhà.

 d) Thời điểm đó, tại nhà nguyên cáo có dì là L (sinh năm 1936, 32 tuổi), con trai của dì là M (sinh năm 1967, lúc bị bắn trong vụ việc là khoảng 9-10 tháng tuổi), anh trai C (sinh năm 1953, 15 tuổi), chị gái D (sinh năm 1957, 11 tuổi), nguyên cáo (8 tuổi), em trai E (sinh năm 1963, 6 tuổi), và một người bạn hàng xóm sang chơi (12 tuổi), tổng cộng là 7 người, tất cả đều không có vũ khí gì trong tay. Những người này khi nghe tiếng súng vang lên từ xung quanh làng thì đều chui nấp vào hầm trong nhà. Mẹ của nguyên cáo là B (sinh năm 1934, 34 tuổi) lúc đó đang ở ngoài chứ không ở trong nhà.

 e) Những binh lính thuộc Đại đội 1 liên quan đến vụ việc đã kéo vào trong nhà nguyên cáo, dùng lựu đạn và súng để uy hiếp, ra lệnh cho nguyên cáo cùng người nhà nguyên cáo phải ra khỏi hầm, mọi người trong gia đình nguyên cáo lần lượt đi ra khỏi miệng hầm, lên tới đâu thì quân lính bắn tới đó, rồi châm lửa đốt nhà nguyên cáo (trong quá trình đó, dì của nguyên cáo tay đang bồng đứa em họ của nguyên cáo ngăn đừng đốt nhà thì binh lính đã dùng dao đâm vào dì), và sau đó kéo sang nơi khác. Như thế, dì của nguyên cáo, em họ của nguyên cáo (con trai của dì), chị ruột nguyên cáo, em trai nguyên cáo, đứa trẻ hàng xóm đã chết ngay tại hiện trường, phần bụng của nguyên cáo, phần bụng và mông của anh trai nguyên cáo (C) đều bị súng bắn trọng thương nhưng không chết.

 f) Mẹ của nguyên cáo, bà B lúc đó đang ở bên ngoài nhưng bị các binh lính thuộc Đại đội 1 liên quan đến vụ việc vây lại cùng một chỗ với hơn mười người dân khác (hầu hết là phụ nữ và trẻ em) và bị bắn chết.

 g) Nguyên cáo và anh trai (C) lánh nạn qua nhà hàng xóm, ở nhà đó một lúc thì nguyên cáo chạy ra ngoài tìm mẹ, giữa chừng thì ngã xuống bất tỉnh. Sau khoảng 15:00 cùng ngày, trung đội tác chiến liên quân CAP D-2 cùng lực lượng nghĩa quân đã lập đội tuần sát đi vào làng Phong Nhị rồi cùng người dân trong làng lo cứu hộ người sống sót, tập trung thi thể người chết lại. Một thành viên trong trung đội tác chiến liên quân (binh sĩ N) đã chụp lại hình ảnh tại hiện trường xảy ra vụ việc. Nguyên cáo và anh trai nguyên cáo được cứu hộ và đưa đi bệnh viện bằng máy bay trực thăng, phải trải qua nhiều cuộc phẫu thuật và điều trị.

2) Cấu thành trách nhiệm bồi thường Nhà nước

Theo những sự thật được công nhận trên đây, các binh lính không rõ danh tính thuộc Đại đội 1 liên quan đến vụ việc mang quốc tịch Hàn Quốc sau khi bắt những người trong tay không có vũ khí, bao gồm dì của nguyên cáo, nguyên cáo lúc đó còn nhỏ tuổi, chị gái, anh trai, em trai v.v đang nấp trong hầm ra khỏi hầm thì liền đó đã nổ súng bắn, dùng dao đâm khiến ngoại trừ nguyên cáo và anh trai nguyên cáo (C) ra thì các thành viên còn lại trong gia đình nguyên cáo (dì, chị gái, em trai, em họ) đều thiệt mạng; sát thương nguyên cáo và anh trai nguyên cáo, dồn mẹ của nguyên cáo cùng những người dân khác vào một chỗ rồi bắn giết. Hành vi này đã xúc phạm đến phẩm giá của con người, xâm hại đến tính mạng và thân thể người khác mà không hề có lý do chính đáng nên đây rõ ràng cần được xem là hành vi phạm pháp. Do đó, bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất về tinh thần mà nguyên cáo đã gánh chịu do những hành vi mà bị cáo tác động lên nguyên cáo.

 

C. Quyết định về phần tranh luận bị cáo


1) Phân định về quan điểm cho rằng đó là hành vi của Việt Cộng hoặc quân đội Bắc Hàn cải trang mặc quân phục Hàn Quốc

 a) Bị cáo có quan điểm cho rằng trong thời kì chiến tranh Việt Nam, Việt Cộng đã cải trang thành quân đội Hàn Quốc để gây ra vụ thảm sát ở chùa Linh Sơn (Phan Rang), cũng như vậy, ở vụ việc này vẫn có khả năng đó là hành vi do Việt Cộng hoặc quân đội Bắc Hàn cải trang thành quân đội Hàn Quốc để gây ra.

 b) Theo các ghi chép trong hồ sơ chứng cứ số 8 trong mục 3 bên bị, những sự thật cũng như tình huống sau được công nhận.

 ① Liên quan đến vụ việc chùa Linh Sơn xảy ra vào tháng 10 năm 1969, đây là vụ việc ban đầu được cho rằng quân đội Hàn Quốc trong thời kì Chiến tranh Việt Nam đã sát hại các nhà sư ở chùa Linh Sơn, nhưng về sau, khi hai nước Hàn Quốc và Việt Nam đồng tiến hành điều tra thì đã biết được vụ việc là do Việt Cộng gây ra, sau đó nguỵ tạo chứng cứ như thể vụ việc là do quân đội Hàn Quốc thực hiện. Vụ việc này được đưa tin trên các phương tiện truyền thông báo chí trong nước (Hàn Quốc) những năm 1969~1971.

② Trong sách Chiến sử quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam (2 thuộc chứng cứ số 10, trang 75, quyển 4 bên nguyên) có ghi chép rằng ngày 2 tháng 2 năm 1968, Đại đội 25 thuộc Lữ đoàn 2 thuỷ quân lục chiến trong khi đi lùng soát ở làng Quảng Lộc Đông (1), làng Phong Hồ (2) (cách làng Phong Nhị khoảng 3km) đã phát hiện 6 tên địch (Việt Cộng) cải trang thành quân ta (Hàn Quốc) nên giao chiến và cuối cùng đã giết chết địch.

 ③ Trong báo cáo tình báo ngày 1 tháng 2 năm 1968 của quân đội Hàn Quốc có nội dung ghi rằng “1 Trung đội quân đội Bắc Hàn đã phối hợp với tiểu đoàn 25 EV của quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để trà trộn vào CP và các đơn vị quân đội Hàn Quốc để mai phục và mưu đồ ám sát”. Tức có tài liệu cho thấy trong thời kì chiến tranh Việt Nam, quân đội Bắc Hàn cũng đã tham chiến bằng cách biệt phái các cán bộ tâm lí chiến sang Việt Nam.

c) Tuy nhiên, khi xét lại những tình huống cũng như những sự thật như sau đã được công nhận theo các chứng cứ đã nêu ra ở trên thì hành vi sát thương đối với nguyên cáo và gia đình nguyên cáo trong vụ việc này có thể xem là hành vi do các binh lính thuộc Đại đội 1 liên quan đến vụ việc gây ra.

① Người với tư cách là nạn nhân sống sót trong vụ việc đã kể rằng Đại đội 1 liên quan đến vụ việc là người gây án gồm có: nguyên cáo và anh trai nguyên cáo là C trong khi đang nấp dưới hầm trong nhà cùng với gia đình thì bị quân lính thuộc Đại đội 1 trong vụ việc phát giác, sau đó bị bắn tại hiện trường và bị thương, sau đó được cứu hộ; bà O, P (1, 2 thuộc chứng cứ số 16 của bên nguyên), Q (1~2 thuộc chứng cứ số 28 của bên nguyên) lúc đó cũng bị nạn trong vụ việc và được trung đội liên minh tại hiện trường cứu hộ, tất cả những nhân chứng này đều thống nhất với nhau ở lời kể rằng những người đã tấn công bản thân chính là quân đội Hàn Quốc. Những người này đều trực tiếp nhìn thấy người gây án ở cự ly gần nhất, ngoại trừ nguyên cáo (lúc đó 8 tuổi) ra, tất cả những người khác đều đã trên 15 tuổi nên bản thân họ đủ hiểu biết để nhận diện người gây án mà họ tận mắt thấy là quân đội Hàn Quốc. Đặc biệt, trước khi vụ việc xảy ra, C đã nhiều lần gặp quân đội Hàn Quốc, thậm chí trong buổi sáng ngày xảy ra vụ việc, anh cũng đã thấy quân đội Hàn Quốc đi ngang qua trước nhà. Xét ở điểm này, có thể thấy lời kể của các nạn nhân sống sót này là đáng tin cậy.

 ② Người với tư cách là người trực tiếp chứng kiến vụ việc kể rằng Đại đội 1 trong vụ việc chính là người gây án gồm có các thành viên trong trung đội liên minh đóng tại CAP D-2 gần Quốc lộ 1, trung uý R, hạ sĩ S, binh nhất N, T, U (chứng cứ số 16 bên nguyên) là những người đã chứng kiến cảnh Đại đội 1 liên quan vụ việc từ Quốc lộ 1 đã kéo quân tấn công vào làng Phong Nhị; có K là người thuộc xã đoàn phát triển nông thôn, sau khi nghe qua máy vô tuyến tin rằng quân đội Hàn Quốc đang tấn công vào làng Phong Nhất và Phong Nhị, ông đã đi về gần làng, đứng ở Quốc lộ 1 và tận mắt chứng kiến cảnh Đại đội 1 liên quan đến vụ việc đang tấn công vào làng Phong Nhị (nội dung làm chứng của nhân chứng K) v.v, tất cả những người này đều đồng quan điểm cho rằng quân lính tấn công vào làng Phong Nhị lúc ấy là quân đội Hàn Quốc.

Đặc biệt, trung uý R của trung đội tác chiến liên minh khi thấy làng Phong Nhị bị tấn công thì để làm rõ xem có phải lực lượng quân đang tấn công làng Phong Nhị có phải quân đội Hàn Quốc hay không, ông đã liên lạc với cơ quan đầu não hợp tác chi viện hoả lực của lữ đoàn quân đội Hàn Quốc để yêu cầu xác nhận toạ độ liên quan đến nhiệm vụ súng cối 81mm hướng đến khu vực ven ruộng nằm ở khu phía Nam làng Phong Nhị, nhưng yêu cầu này đã bị từ chối với lý do quân đội Hàn Quốc đang tác chiến trong khu vực đó, ngay cả yêu cầu để ông đi vào làng Phong Nhị cũng bị từ chối với cùng lý do là quân đội Hàn Quốc đang tác chiến (Bản tường trình của trung uý R, 1~2 chứng cứ số 16 bên nguyên). Điều này cho thấy rất rõ rằng trong thời gian làng Phong Nhị bị tấn công thì một phần của lực lượng Đại đội 1 liên quan đến vụ việc đang có mặt ở làng Phong Nhị.

 ③ Người với tư cách là thành viên trong Đại đội 1 liên quan vụ việc khẳng định người gây án là Đại đội 1 liên quan đến vụ việc gồm có V – Trung đội trưởng Trung đội 1 (chứng cứ số 13 bên nguyên, 1~4 chứng cứ số 21 bên nguyên), W – Trung đội trưởng Trung đội 2 (chứng cứ số 13 bên nguyên), X – Trung đội trưởng Trung đội 3 (chứng cứ số 13 bên nguyên), J – binh sĩ Trung đội 2 (chứng cứ số 22 bên nguyên, lời làm chứng của nhân chứng J), Y – binh sĩ trong Trung đội 2 (chứng cứ số 23 bên nguyên). Tất cả những người này đều tường thuật giống nhau rằng một nhóm trong các binh sĩ thuộc Đại đội 1 liên quan đến vụ việc trong cuộc triển khai tác chiến ngày 12 tháng 2 năm 1968 đã sát hại nhiều người dân trong làng.

Đặc biệt, Trung đội trưởng Trung đội 1 V và Trung đội trưởng Trung đội 2 W đều giống nhau trong nội dung tường thuật rằng sau khi bị bắn tỉa, quân đội Hàn Quốc đã vào làng để lùng soát, bắt lùa hết tất cả những người dân mà họ thấy được ra ngoài rồi bàn giao lại cho trung đội đi sau, còn họ tiếp tục đi tới thì một lúc sau họ nghe từ phía sau có tiếng súng vang lên, họ biết rằng tiếng súng đó là tiếng súng do lực lượng trung đội đi sau sau khi nhận bàn giao thì đã nổ súng vào người dân. Ngoài ra, Trung đội trưởng W có kể lại rằng khi thấy người dân đặt xác người bị giết trong ngày hôm trước dọc theo đoạn quốc lộ gần làng và trừng trừng nhìn tốp lính Hàn Quốc với ánh mắt hận thù, ông đã xác thực được câu chuyện ông nghe được vào buổi tối hôm trước rằng trung đội bọc sau sau khi nhận bàn giao thì đã nổ súng giết hại người dân là có thật. Binh sĩ J của Trung đội 2 đã kể vào sáng ngày 13 tháng 2 năm 1968, một ngày sau vụ việc xảy ra ở Phong Nhị, trong lúc đi trinh sát trên Quốc lộ 1, ông đã thấy người dân đặt các thi thể bị giết chết trong ngày hôm trước ở một điểm gần làng Phong Nhị, và sau khi trở về căn cứ của đại đội, ông đã nghe các thành viên khác trong trung đội nói về việc trong cuộc tác chiến ngày trước đó, binh sĩ đã nghe theo mệnh lệnh của Trung đội trưởng và tấn công những người dân trong làng.

Những lời tường thuật của các thành viên trong Đại đội 1 liên quan đến vụ việc như trên với tư cách là những người ở gần nhất ngay tại hiện trường lúc xảy ra vụ việc cho thấy khó có thể có lý do những người này tự đặt điều, dựng chuyện đối với những gì họ đã chứng kiến, vì vậy, lời kể của họ có độ xác thực rất cao.

 ④ Lúc Đại đội 1 liên quan vụ việc triển khai tác chiến trên một phần làng Phong Nhị và Phong Nhất vào ngày 12 tháng 2 năm 1968, binh nhất Z và binh nhất aa, lính liên lạc của lực lượng thuỷ quân lục chiến Mỹ cùng đi theo, binh nhất aa tường thuật rằng trong cuộc tác chiến ngày 12 tháng 2 năm 1968, Đại đội 1 liên quan vụ việc đã tấn công làng theo mệnh lệnh của Đại đội trưởng, và lực lượng tấn công làng không phải là toàn thể Đại đội 1 mà là một trung đội thôi (1~2 chứng cứ số 16 bên nguyên). Binh nhất Z và binh nhất A không đề cập cụ thể tên của ngôi làng mà Đại đội 1 liên quan vụ việc đã tấn công, tuy nhiên, quang cảnh ngôi làng bị Đại đội 1 của vụ việc mà hai người này miêu tả lại rất giống với những bức ảnh và lời giải thích mà binh nhất N, thành viên trong trung đội liên minh, đã chụp và ghi chép lại hình ảnh làng Phong Nhị sau cuộc tấn công của quân đội Hàn Quốc, qua đó, có thể biết được ngôi làng bị Đại đội 1 liên quan vụ việc tấn công mà hai binh nhất này miêu tả chính là làng Phong Nhị.

⑤ Sau khi xảy ra vụ việc, trưởng nhóm điều tra của Ty Hiến binh phụ trách điều tra vụ việc này từng trả lời phỏng vấn trước ngôn luận rằng “quân đội Hàn Quốc khi đi ngang qua làng đã bị bắn tỉa, thấy quân mình ngã xuống thì lập tức quân đội cho bao vây và tấn công làng, người dân trong làng bị thảm sát tập thể, nhưng theo chỉ thị của cấp trên, quân đội đã che giấu vụ việc bằng cách nói rằng vụ việc là do Việt Cộng cải trang thành quân đội Hàn Quốc và gây ra” (chứng cứ số 18 bên nguyên), lời kể này lại càng giúp khẳng định thêm người gây án trong vụ việc là Đại đội 1 liên quan.

⑥ Bị cáo cho rằng hồ sơ Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam là tài liệu mang tính chính thức, có độ tin cậy cao, nhưng trong ghi chép về tình hình tác chiến ngày 12 tháng 2 năm 1968 trong sách Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam không hề có nội dung rằng Đại đội 1 liên quan vụ việc tấn công vào làng Phong Nhị, và theo bị cáo, điều này chứng minh rằng Đại đội 1 của vụ việc không liên quan đến vụ việc ở Phong Nhị.

Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam, quyển 4 trang 349 có ghi lại như sau về các hoạt động của Đại đội liên quan vụ việc trong ngày 12 tháng 2 năm 1968.



Theo quan điểm của bị cáo, Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam có ghi Đại đội 1 liên quan vụ việc trong ngày hôm đó đã theo Quốc lộ 1 tiến về phía Bắc, và để đi đến bờ Suối Cổ Cò (sông) phải chuyển hướng về phía Tây, đi vào làng Phong Nhứt chứ không phải làng Phong Nhị, và giữa chừng lại chuyển hướng tấn công sang phía Tây, sau đó, nhóm quân tiên phong của Đại đội vào lúc 11:05 đã tấn công vào mục tiêu (11).

 Tuy nhiên, từ Quốc lộ 1, để đi về phía Suối Cổ Cò (sông) là vùng tác chiến, Đại đội 1 liên quan vụ việc đã chuyển hướng sang phía Tây đi vào làng Phong Nhị, điều này được xác định rõ ràng trong phụ lục 2 “Sơ đồ tác chiến Quái Long 1, bản vẽ đính kèm trong Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam” (chứng cứ số 11 bên nguyên). Đó là vì trong bản vẽ ở phụ lục 2 có thể hiện rõ vị trí của Quốc lộ 1, làng Phong Nhị, làng Phong Nhất (1), làng Phong Nhất (2), Suối Cổ Cò (sông) và lộ trình di chuyển của Đại đội 1 liên quan đến vụ việc trong cuộc tác chiến ngày 12 tháng 2 năm 1968 đều được thể hiện, cụ thể ngày 12 tháng 2 năm 1968, Đại đội 1 liên quan vụ việc đầu tiên đi qua mục tiêu (11), tức khu vực làng Phong Nhị, sau đó đi qua mục tiêu (12), (13) tức làng Phong Nhất (2) rồi tiến quân đến Suối Cổ Cò (sông).

 Đặc biệt, theo sơ đồ tác chiến Quái Long 1, tên địa danh “Phong Nhứt” không được đề cập mà chỉ có tên địa danh “Phong Nhứt (1)” và “Phong Nhứt (2)”, tức trong ghi chép lịch sử quân đội đòi hỏi tính chính xác cao, việc tên địa danh được xác định rõ rành (1) và (2) như vậy cho thấy các địa danh “Phong Nhứt (1)” và “Phong Nhứt (2) đã được ghi chú chính xác. Trên thực tế, trong Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam khi kể về tình hình tác chiến ngày 12 tháng 2 năm 1968 của Đại đội 1 liên quan vụ việc có ghi “đơn vị đã theo địa hình thuận lợi của làng Phong Nhứt (2) nằm ở bờ Tây của Suối Cổ Cò (sông) và tẻ thành hai cánh quân ở phía Bắc, phía Nam triển khai nhiệm vụ rào chắn quanh khu vực đã phối hợp với Đại đội 2 và Đại đội 7”, ở đây tên địa danh “Phong Nhứt (2)” được chỉ đích danh, xác định. Xét ở điểm này, Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam không ghi cụ thể tên địa danh của ngôi làng mà Đại đội 1 liên quan vụ việc từ Quốc lộ 1 băng vào là Phong Nhứt (1) hay Phong Nhứt (2) mà lại ghi là “Phong Nhứt” là địa danh không xuất hiện trong sơ đồ tác chiến, thì đây là điểm bất thường. Hơn nữa, theo sơ đồ tác chiến ở trên, “mục tiêu (11)” rõ ràng nằm ở phía Đông của ngôi làng có tên gọi là “Phong Nhứt (1)” và “Phong Nhứt (2)”, tức Phong Nhứt, như vậy thì nội dung được ghi trong Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam rằng “khi đi trinh sát dọc theo Quốc lộ 1 về phía Bắc thì tiến vào làng Phong Nhứt và chuyển hướng tấn công về phía Tây. Như thế, vào lúc 11:05, đơn vị tiên phong của Đại đội đã tấn công vào mục tiêu (11)” có thể được xem là nội dung ghi chép trước sau không thống nhất. Xét ở điểm này, có thể nghi ngờ rằng Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam đã cố tình ghi địa danh “Phong Nhị” thành “Phong Nhứt” nhằm che giấu sự thật rằng Đại đội 1 của vụ việc đã đi vào làng “Phong Nhị” trong thời điểm đó.

 Ngoài ra, khi xét rằng Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam là ghi chép chính thức do Bộ Quốc phòng biên soạn thì khả năng ghi chép y nguyên sự thật liên quan đến tội ác chiến tranh như giết hại thường dân là rất thấp. Đặc biệt, liên quan đến vụ việc tại làng Phong Nhị, khoảng tháng 6 năm 1968, trong bức thư chính thức của Tư lệnh quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam đương thời (tướng Chae Myung Shin) có ghi rằng “đây là hành vi do Việt Cộng cải trang thành quân đội Hàn Quốc gây ra”, và Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam được biên soạn 4 năm sau đó nên khả năng cao là ghi chép lại dựa trên tuyên bố chính thức này. Trên thực tế, liên quan đến tình hình tác chiến của Đại đội 1 trong vụ việc vào ngày 12 tháng 2 năm 1968 được ghi chép trong Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam, việc một phần sự thật bị bỏ sót hoặc các ghi chép nguỵ tạo v.v (Trong Hồ sơ tác chiến có ghi rằng Đại đội 1 liên quan vụ việc trong ngày 12 tháng 2 năm 1968 khi đang triển khai công tác rào chắn thì rút quân, quay về căn cứ đại đội, binh sĩ J thuộc Trung đội 2, người đã tham gia cuộc tác chiến ngày đó cũng nói rằng khi đang làm nhiệm vụ rào chắn thì đột ngột có lệnh rút quân và tất cả rút về lại căn cứ đại đội. Đặc biệt, trong Hồ sơ tác chiến có ghi không chỉ Đại đội 1 liên quan vụ việc mà cả “Đại đội 2” và “Đại đội 7” của cùng Tiểu đoàn 1 đang cùng phối hợp để triển khai tác chiến ngăn chặn cũng rút lui theo quân lệnh, trong khi đó, Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam lại ghi chép như thể Đại đội 1 liên quan vụ việc vẫn tiếp tục thực thi nhiệm vụ tác chiến ngăn chặn như kế hoạch tác chiến vốn dĩ và đóng lại đó suốt đêm, điều này đặt dấu nghi vấn về khả năng ghi chép nguỵ tạo) cho thấy ý đồ muốn che giấu tình hình thực tế lúc bấy giờ, do đó, lấy lý do trong Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam không có nội dung Đại đội 1 liên quan vụ việc tấn công vào làng Phong Nhị để khẳng định rằng Đại đội 1 trong vụ việc không phải là người gây án trong vụ việc Phong Nhị như quan điểm của bị cáo là khó chấp nhận được.

⑦ Bị cáo lập luận rằng nội dung tường thuật của bà C rằng “Nghe nói là do Việt Minh tấn công làng Phong Nhị” (1~2 chứng cứ số 29, chứng cứ số 41 bên nguyên) càng khẳng định thêm quân đội đã tấn công làng Phong Nhị chính là Việt Cộng nguỵ trang thành lính Hàn Quốc.

Tuy nhiên, như bà C đã tự nói, lúc xảy ra vụ việc bà “nghe tiếng súng thì chui vào hầm trong nhà mình nấp, tới sau khi vụ việc đã kết thúc hẳn thì mới bước ra khỏi hầm” (chứng cứ số 41 bên nguyên). Tức bà đã không tận mắt chứng kiến vụ việc. Thêm vào đó, về chuyện “lính Việt Minh tấn công làng Phong Nhị” thì bà cc cũng tường thuật rất mơ hồ là nghe lại từ người khác, thậm chí bà cũng không biết là nghe từ ai nói, vì vậy độ tin cậy và xác thực của lời làm chứng này là thấp.

⑧ Theo báo cáo giám sát của quân đội Mỹ tại Việt Nam (1, 2 chứng cứ số 16 bên nguyên), về việc quân đội Hàn Quốc có liên quan đến vụ việc này hay không thì có ghi rõ rằng “5. Kết luận: Không”, và không thừa nhận sự thật thảm sát của quân đội Hàn Quốc như nguyên cáo chủ trương, và căn cứ vào một số nội dung của báo cáo, bị cáo chủ trương rằng việc khẳng định quân đội Hàn Quốc là người gây án là không thoả đáng.

Báo cáo giám sát của quân đội Mỹ tại Việt Nam là hồ sơ cung cấp thông tin thông qua việc thu thập, phân tích, sắp xếp các tài liệu đa dạng liên quan đến các vụ việc bị tình nghi là các vụ thảm sát thường dân do quân đội Hàn Quốc gây ra, và việc không đưa ra một kết luận cụ thể như vậy thì không thể xem đây là tài liệu mang tính quyết định đối với thực tế vụ việc, đồng thời, chỉ với những dẫn chứng và phân tích đã nêu trên từ j~o cũng đủ để có thể xác nhận sự thật rằng quân đội Hàn Quốc có liên quan đến vụ việc.

d) Do đó, các chủ trương trên của bị cáo là không thuyết phục.

2) Phân định về chủ trương cho rằng sự việc là hành vi chính đáng vì đó là hành vi chiến đấu hoặc là sự cố phát sinh trong quá trình giao chiến với địch

a) Bị cáo chủ trương rằng nguyên cáo, gia đình nguyên cáo cũng như các nạn nhân của vụ việc đều có khả năng là thế lực thông đồng với Việt Cộng nên mới bị sát thương do hành vi chiến đấu hoặc các sự cố phát sinh trong quá trình giao chiến, như vậy đây là hành vi chính đáng.

① Theo bài báo khoa học mà bị cáo đưa ra (chứng cứ số 7 bên bị, bài báo “Nghiên cứu về Tác chiến Quái long số 1 của quân đội Hàn Quốc trong Chiến tranh Việt Nam: tập trung vào trường hợp vụ thảm sát thường dân Phong Nhất – Phong Nhị”), đầu tiên, làng Phong Nhất và làng Phong Nhị là nơi Việt Cộng hoạt động rất thường xuyên, hoặc ít ra là nơi quân giải phóng và người dân theo Việt Nam Cộng hoà cùng chung sống với nhau, và theo bản đồ tình hình tác chiến trong thời kì Chiến tranh Việt Nam (cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) được đưa vào trong cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Điện An, huyện Điện Bàn mà bài báo có đưa vào tham khảo, có thể thấy làng Phong Nhị và làng Phong Nhất được đánh dấu là vùng chiến đấu của quân giải phóng và Việt Cộng, ở làng Phong Nhị và Phong Nhất, mỗi làng đều có 1 điểm hầm trú ẩn bí mật.

 Trong bài viết hồi tưởng về tình hình tham chiến của các sĩ quan trong Chiến tranh Việt Nam (chứng cứ số 13 bên bị) có nội dung “tác chiến lục soát làng Phong Nhị” ngày 27 tháng 7 năm 1968, trong đó có đề cập vào buổi sáng sớm trước ngày tác chiến truy lùng của quân ta (Hàn Quốc), có 8 Việt Cộng đã đào thoát khỏi làng Phong Nhị, trong làng Phong Nhị có tổ chức ngầm của Việt Cộng, và trong khi tiến hành lục soát đã bắt được 2 nữ Việt Cộng.

b) Tuy nhiên, bản đồ tình hình tác chiến trong thời kì Chiến tranh Việt Nam nêu ra trong cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Điện An, huyện Điện Bàn được trích dẫn trong bài báo khoa học trên không hề chỉ ra đích xác tình hình đó thuộc thời điểm nào (tuỳ theo tình hình và thời gian tiến hành chiến tranh mà hoàn toàn có khả năng xảy ra những thay đổi ở những làng quê đó), bài viết hồi tưởng về các sĩ quan tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam thì nêu ra sự việc ở thời điểm cách thời điểm vụ việc này đến hơn 5 tháng, vì vậy chỉ với những chứng cứ cũng như những tình huống nêu ra ở đây thì chưa đủ để có thể công nhận lập luận cho rằng các binh sĩ trong Đại đội 1 trong lúc triển khai tác chiến tại làng Phong Nhị ngày 12 tháng 2 năm 1968 có cơ sở hoặc có lý do để ngộ nhận rằng nguyên cáo, người nhà nguyên cáo là Việt Cộng hoặc thế lực đồng loã. Nói cách khác, không có chứng cứ để chứng minh lập luận này.

Thêm vào đó, chỉ với những chứng cứ đưa ra cũng khó để tìm thấy căn cứ nào thoả đáng để dẫn đến việc cho rằng nguyên cáo hay người nhà, người thân nguyên cáo nấp trong hầm lúc bấy giờ có vũ trang hoặc ngộ nhận rằng họ được vũ trang.

c) Những binh sĩ thuộc Đại đội 1 lúc bấy giờ rời Quốc lộ 1 và trong khi di chuyển theo hướng Tây thì bị bắn tỉa mấy chục phát đạn phát ra từ phía Tây Bắc, dẫn đến việc thực hiện tác chiến lục soát trong làng Phong Nhị là đúng, nhưng xét theo tình huống và các sự thật được xác nhận dựa trên các chứng cứ nêu ra trong phần 1) của b. như sau thì khó có thể xem hành vi nổ súng vào nguyên cáo và người nhà nguyên cáo của các binh sĩ trong Đại đội 1 là hành vi chính đáng.

① Dù là trong chiến tranh nhưng trong điều kiện không có đủ căn cứ để nghi ngờ đối phương có chủ động tham gia hoặc đã tham gia vào hành vi thù địch mà vẫn gây sát thương không phân biệt người có hành vi thù địch và người không có hành vi thù địch thì đây là việc không thể chấp nhận được. Việc này cũng không thể xem là chính đáng cho dù có là tình huống Việt Cộng không mặc quân phục mà mặc trang phục thường dân để tham gia vào chiến đấu.

 Người thân của nguyên cáo, ông T và K lần lượt là người tham gia lực lượng lính nghĩa quân và cán bộ đoàn xây dựng nông thôn, và thực tế trong số những người bị bắn lúc đó có cả người nhà của lính nghĩa quân, xét ở điểm này cũng khó có thể tìm thấy cơ sở thuyết phục để nói rằng các binh sĩ trong Đại đội 1 liên quan vụ việc đã thực hiện việc lùng soát trong làng để tìm ra địch (quá trình phân biệt người tham gia chiến đấu và người không tham gia chiến đấu, xác nhận đối tượng có tham gia hành vi thù địch hay không).

Thậm chí, theo lời kể của nạn nhân sống sót, người chứng kiến, thành viên trong Đại đội 1 liên quan vụ việc, lính liên lạc của lực lượng thuỷ quân lục chiến Mỹ, nguyên cáo và người nhà nguyên cáo cũng như đa số người dân đều trong tình trạng không vũ trang và bị các binh sĩ trong Đại đội 1 liên quan vụ việc bắn xối xả, và trong số người bị bắn súng còn có cả một số trẻ sơ sinh.

 Trong quá trình chụp ảnh hiện trường vụ việc, binh sĩ N của trung đội tác chiến liên minh phát hiện ra xung quanh đống xác người không có dấu đạn, điều này có nghĩa là những người dân bị hại đã bị trúng đạn ở cự ly gần hoặc bị lưỡi lê đâm (bản tường thuật của binh nhất N 1~2 chứng cứ số 16 bên nguyên). Điều này càng làm vững thêm quan điểm khó có thể cho rằng tình huống lúc đó là tình huống giao chiến với địch.

Khi làm chứng trước toà, K nói rằng đã tận mắt nhìn thấy các binh sĩ trong Đại đội 1 liên quan vụ việc tập trung mẹ của nguyên cáo cùng hơn mười người dân khác lại một chỗ rồi xả súng bắn, sau đó ném lựu đạn vào, và ông cũng kể lại rất chi tiết tình hình lúc bấy giờ khi cùng lực lượng trung đội tác chiến liên minh vào làng để thực hiện công tác cứu hộ, ông đã nhìn thấy nguyên cáo và anh trai nguyên cáo là C bị thương nặng, ông còn phát hiện mấy đống thi thể của người dân bị thảm sát tập thể.

 Theo nội dung ghi chép lại tình hình tác chiến ngày 12 tháng 2 năm 1968 trong Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam có ghi chiến tích Đại đội 6 thuộc Tiểu đoàn 2 đã phát hiện được 2 hầm trú ẩn của quân địch, sau khi lục soát đã bắn hạ 5 tên địch, tịch thu vũ khí, chiến tích Đại đội 8 thuộc Tiểu đoàn 3 trong khi triển khai tác chiến đã giao chiến với địch, bắn hạ 22 tên địch, tịch thu vũ khí.

Nếu đúng như quan điểm của bị cáo, thật sự những nạn nhân trong vụ việc là Việt Cộng hoặc thế lực đồng loã của địch và Đại đội 1 trong khi giao chiến đã giết hại hết những người này thì lẽ ra nội dung này cần phải được ghi chép một cách trung thực trong Chiến sử Quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam bởi có thể xem đây là chiến tích của đại đội liên quan, tuy nhiên, lại không hề có bất kì một sự đề cập nào liên quan đến tình hình tác chiến của Đại đội 1 ngày 12 tháng 2 năm 1968. Điều này giúp chúng ta có thể đoán được vụ việc xảy ra ở làng Phong Nhị không phải phát sinh trong lúc giao chiến với địch.

d) Do đó, lập trường của bị cáo cho rằng đây là hành vi chính đáng không được chấp thuận.


D. Quyết định đối với kháng nghị của bị cáo về hết thời hiệu khởi kiện


1) Lập trường của bị cáo

Khoản 2, điều 96 Luật Tài chính quốc gia [Vốn là Luật Dự toán kế toán (luật trước khi được sửa đổi toàn bộ theo Bộ luật 4102 ngày 31 tháng 3 năm 1989), khoản 2 điều 71] quy định thời hạn 5 năm cho quyền kiện đòi bồi thường, tính từ ngày hành vi vi phạm, theo đó, quyền đòi bồi thường thiệt hại của nguyên cáo đã qua, không chỉ vậy, cho dù có tính từ thời điểm nguyên cáo thành niên để có khả năng thực hiện hành vi dân sự đòi bồi thường thiệt hại thì cũng đã hơn 40 năm trôi qua, cho dù có lấy thời điểm bắt đầu có được những lời tường thuật từ các quân nhân là những nhân chứng chủ yếu đưa ra các chứng cứ quan trọng thì đó cũng là năm 2013, 2014, hoặc lấy thời điểm có thể tiếp cận được bộ hồ sơ giám sát của quân đội Mỹ thì cũng là khoảng tháng 6 năm 2000; tính từ thời điểm đó thì cũng đã quá thời hạn hết thời hiệu là 3 năm theo Khoản 1 Điều 766 của luật dân sự.

2) Pháp lý liên quan

Quyền đòi bồi thường theo quy định trong toàn văn Khoản 1 Điều 2 của Luật bồi thường , là quyền lợi đối với quốc gia với mục đích cấp phát hiện kim, theo Khoản 2 Điều 96 Luật Tài chính quốc gia [Vốn là Luật Dự toán Kế toán (luật trước khi được sửa đổi toàn bộ theo Bộ luật 4102 ngày 31 tháng 3 năm 1989), khoản 2 điều 71], nếu không thực hiện quyền này trong 5 năm kể từ thời điểm xảy ra vụ việc, quyền sẽ bị vô hiệu hoá do đã hết thời hiệu (tham khảo phán quyết 2000Da57856 trong tuyên cáo ngày 24 tháng 4 năm 2001 của Toà án tối cao, phán quyết 2006Da70929, 2006Da70936 trong tuyên cáo ngày 27 tháng 3 năm 2008).

Ngoài ra, trong quyền đòi bồi thường nhà nước đoạn đầu nội dung chính ở Khoản 1 Điều 2 Luật bồi thường Nhà nước, thì Khoản 1 Điều 766 Luật dân sự được áp dụng theo Điều 8 của Luật bồi thường Nhà nước, theo đó, quyền đòi bồi thường nhà nước của người bị hại hoặc đại diện luật pháp của người bị hại là trong 3 năm kể từ ngày biết đến sự thiệt hại và người gây hại nếu không sử dụng quyền đòi bồi thường thì quyền này sẽ bị vô hiệu hoá do hết thời hiệu. Ở đây, “Ngày biết bị thiệt hại và người gây hại” có nghĩa là thời điểm nhận thức trên thực tế, nhận thức cụ thể về sự tồn tại của hành vi phạm pháp tính theo sự xác định về mặt nghiệp vụ của cán bộ chuyên viên và sự thật cốt yếu của hành vi phạm pháp chẳng hạn như những phát sinh về thiệt hại do hành vi đó gây ra. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm nào là thời điểm người bị hại nhận thức một cách thực tế và cụ thể về sự thật cốt yếu của hành vi phạm pháp thì cần phải tổng hợp hết tất cả các yếu tố tình huống khách quan của từng sự việc, cũng như điều kiện có thể đòi bồi thường thiệt hại để đưa ra phán đoán một cách hợp lý (xem phán quyết 2009Da33754 tuyên cáo ngày 13 tháng 4 năm 2012).

Liên quan đến quyền đòi bồi thường nhà nước, xét thời hạn thời hiệu dài hạn 5 năm và xét thời hạn thời hiệu ngắn hạn 3 năm như đã nói trên, ngoài việc áp dụng các quy định về thời hiệu trên, ở Khoản 1 Điều 166 Luật dân sự có quy định chung về việc tính thời hạn của thời hiệu, trong đó thời hạn của thời hiệu được tính chỉ từ khi quyền lợi được phát sinh một cách khách quan và đương sự có năng lực thực hiện quyền lợi đó, trong điều kiện đương sự không thể thực hiện quyền lợi đó thì thời hạn thời hiệu sẽ không tính (xem phán quyết 2009Da33754 trong tuyên cáo ngày 13 tháng 4 năm 2012 và phán quyết 2020Da210976 trong tuyên cáo ngày 12 tháng 1 năm 2023 của Toà án tối cao về việc tính thời hạn thời hiệu ngắn hạn 3 năm đối với quyền đòi bồi thường nhà nước).

3) Quyết định về việc hết thời hiệu khởi kiện

a) Xét trên những sự thật và tình huống đã được xác định từ việc tổng hợp từ các chứng cứ nêu trên cùng các nội dung biện luận xoay quanh các nội dung trong hồ sơ chứng cứ số 13~16, 18, 21~23, 25~30, 32~38, 40, 41 của bên nguyên, việc xem rằng cho đến thời điểm khởi kiện liên quan đến sự việc này, về mặt khách quan, nguyên cáo đã ở trong điều kiện bị ngăn trở không thể thực hiện quyền đòi bồi thường thiệt hại trong vụ việc này là thoả đáng, và vì vậy, cần phải nhìn nhận là thời điểm khởi kiện về vụ việc này của nguyên cáo là trước khi hết thời hạn thời hiệu.

① Quân đội Mỹ và quân đội Hàn Quốc bắt đầu rút khỏi Việt Nam từ năm 1973, chính quyền miền Nam Việt Nam đã đầu hàng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân giải phóng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam chính thức chấm dứt, và ngày 2 tháng 7 năm 1976, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập. Từ sau đó, mối quan hệ ngoại giao giữa Đại Hàn Dân Quốc và Việt Nam bị gián đoạn suốt một thời gian, đến ngày 22 tháng 2 năm 1992, hai nước mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Như vậy, sau khi vụ việc xảy ra, trong suốt 7 năm sau đó chiến tranh vẫn tiếp diễn, sau khi chấm dứt chiến tranh, mối quan hệ ngoại giao giữa Hàn Quốc và Việt Nam bị gián đoạn, trong tình hình đó, nguyên cáo không thể đòi bồi thường đối với thiệt hại của bản thân.

② Thời điểm vụ việc xảy ra, nguyên cáo 8 tuổi và trở thành trẻ mồ côi do người thân trong gia đình đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nghiêm trọng do vụ việc, vì vậy, nguyên cáo đã không thể học cho hết bậc tiểu học, trong tình cảnh đó, nguyên cáo đã phải sống rất cực khổ.

③ Thực tế tình huống cho thấy quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam có ý định che đậy chân tướng vụ việc khi vào tháng 4 năm 1968, tức ngay sau khi vụ việc xảy ra, đã cho các nhân viên điều tra thuộc Ty Hiến binh tiến hành điều tra trên các đối tượng là các thành viên trong Đại đội 1 theo định hướng đây là “hành vi do Việt Cộng cải trang thành lính Hàn Quốc gây ra” (hồ sơ số 18 bên nguyên), tiếp đó, cũng nhằm che giấu chân tướng vụ việc, khoảng tháng 6 năm 1968, trong thư trả lời chính thức dưới danh nghĩa là Tư lệnh của quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam (tướng Chae Myung Shin) có đưa ra lập trường rằng đó là “hành vi do Việt Cộng cải trang thành lính Hàn Quốc gây ra”.

④ Năm 1969, cơ quan điều tra (Bộ Tình báo Trung ương) đã tiến hành điều tra chân tướng vụ việc trên quy mô lớn, tuy nhiên, với lý do quan ngại về vấn đề ngoại giao… cho đến nay bị cáo vẫn từ chối công khai các tài liệu liên quan, thậm chí cũng không có động thái xác nhận có hay không thực hiện điều tra xác minh sự việc, điều này cho thấy bị cáo đang cố tình che giấu chân tướng vụ việc.

⑤ Từ sau khi quan hệ ngoại giao giữa Hàn Quốc và Việt Nam được thiết lập cho đến nay, lập trường chính thức của bị cáo về việc có hay không có thảm sát thường dân do quân đội Hàn Quốc gây ra trong Chiến tranh Việt Nam vẫn luôn là “Không thể xác minh điều này”. Ngày 4 tháng 4 năm 2019, nguyên cáo cùng nhiều nạn nhân sống sót khác cũng đã gửi đơn thỉnh cầu đến bị cáo yêu cầu điều tra xác minh chân tướng sự việc và đòi bồi thường thiệt hại nhưng đến ngày 9 tháng 9 năm 2019, bị cáo đã trả lời rằng “Không thể xác minh được sự thật vấn đề thảm sát thường dân của quân đội Hàn Quốc từ các hồ sơ tài liệu trong nước, và để xác minh sự thật cần phải tiến hành điều tra cùng với chính phủ Việt Nam, nhưng điều kiện thực tế không cho phép”.

⑥ Những hành vi xâm hại đến các quyền cơ bản về tính mạng và thân thể trong thời gian chiến tranh do quân lính gây ra một cách có tổ chức, mang tính tập thể… thường dễ bị che đậy, và khó có thể cứu trợ theo luật thông thường. Hơn nữa, nguyên cáo lại là người nước ngoài, lại thêm các hành vi che giấu sự thật, gây trở ngại trong việc xác minh sự thật của bị cáo như đã nêu trên, do đó, cho đến gần đây nhất, nguyên cáo vẫn ở trong tình huống khó có thể xác định chính xác đơn vị đã gây án trong vụ việc này.

⑦ Ở Hàn Quốc thời gian qua đã có nhiều bài báo, bản tin về vụ việc, hay những tài liệu mật trong hồ sơ báo cáo giám sát quân đội Mỹ tại Việt Nam và các bài giới thiệu các nội dung liên quan, những nội dung phỏng vấn, lời kể của các thành viên thuộc đơn vị liên quan vụ việc trong quá trình điều tra về vụ việc v.v, tuy nhiên, có thể xem rằng trong nước vẫn chưa có tài liệu nào được xác nhận một cách chính thức. Trong lúc đó, luật sư (1 người trong số các luật sư đại diện tố tụng của nguyên cáo trong vụ việc này) của một tổ chức dân sự đã triển khai các hoạt động nhằm làm sáng tỏ chân tướng sự thật xoay quanh vấn đề thảm sát thường dân của quân đội Hàn Quốc trong Chiến tranh Việt Nam vào ngày 2 tháng 8 năm 2017, với lý do rằng “Bộ Tình báo Trung ương, tiền thân của Viện Tình báo Quốc gia, vào tháng 11 năm 1969 đã tiến hành điều tra với 3 người từng là sĩ quan trong Đại đội 1 liên quan đến vụ việc này (V, W, X), nên đã gửi thư đến Viện Tình báo Quốc gia, yêu cầu công khai “mục lục hồ sơ đã soạn thảo trong quá trình điều tra những người liên quan” và “danh mục hồ sơ báo cáo liên quan đến vụ việc” do Bộ Tình báo Trung ương soạn thảo, và khi yêu cầu này bị từ chối, luật sư đã khởi kiện (vụ kiện 2017GuHap83614 Toà án Hành chính Seoul) về việc huỷ bỏ quyền xử lý từ chối công khai thông tin, và thông qua phán quyết của toà vào 27 tháng 7 năm 2018, đã có thể xác nhận sự thật rằng “liên quan đến vụ việc này, vào ngày 14 tháng 8 năm 1972, Viện Tình báo Quốc gia đã sử dụng vi phim chụp lại các hồ sơ được soạn thảo trong quá trình điều tra với 3 đối tượng từng là sĩ quan trong Đại đội 1 liên quan vụ việc để lưu trữ tài liệu, và có tồn tại mục lục hồ sơ đó” (Cuối cùng, đến ngày 6 tháng 4 năm 2021 mới nhận được từ Giám đốc Viện Tình báo Quốc gia một phần mục lục chụp bằng vi phim, nhưng trong đó chỉ có tên và nơi xuất thân của 3 đối tượng bị điều tra mà thôi). Qua đó đã có thể xác nhận là có tồn tại tài liệu chính thức phù hợp với nội dung phỏng vấn cũng như lời kể của các thành viên trong đơn vị liên quan đối với ngôn luận.

⑧ Dù là nguyên cáo nhưng trong tình hình không thể xác định được các tài liệu chứng cứ liên quan cũng như những tài liệu mang tính chính thức như vậy thì nếu có khởi kiện sớm hơn để đòi bị cáo đòi bồi thường nhà nước thì khả năng đòi bồi thường thiệt hại đó được chấp nhận là không có, nên thực tế nguyên cáo đã không ở trong điều kiện thuận lợi để kiện đòi bồi thường thiệt hại.

b) Xét những điểm trên, có thể nói rằng, chính phủ Đại Hàn Dân Quốc hoặc cơ quan quân đội dù không trực tiếp cản trở nguyên cáo thực hiện quyền đòi bồi thường nhà nước đối với vụ việc này thì cho đến tận thời điểm nguyên cáo có thể khởi kiện, xét một cách khách quan, nguyên cáo đã ở trong tình trạng bị cản trở khiến không thể thực hiện quyền đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến vụ việc này.

4) Lập luận hết thời hạn thời hiệu có phải là lạm dụng quyền lợi hay không

a) Mặt khác, việc thực hiện quyền kháng nghị trong thời hạn hiệu lực của bên nợ cũng bị chi phối bởi các nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự Hàn Quốc như nguyên tắc thiện chí, trung thực và cấm lạm dụng quyền lợi. Trong các trường hợp đặc biệt sau, bên nợ chủ trương đã hết thời hạn thời hiệu được xem là lạm dụng quyền hạn, trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực và không được chấp nhận: Bên nợ khiến chủ nợ không thể hoặc gây khó khăn đáng kể trong việc thực hiện các quyền lợi của chủ nợ hoặc làm gián đoạn thời hiệu thi hành trước khi hết thời hạn thời hiệu; có các hành động khiến chủ nợ tin rằng biện pháp giải quyết đó là không cần thiết; có các yếu tố cản trở về mặt khách quan khiến chủ nợ không thể thực hiện quyền lợi; hoặc sau khi kết thúc thời hạn thời hiệu lần thứ nhất, bên nợ tỏ thái độ sẽ không viện dẫn thời hiệu và khiến người hưởng quyền lợi phải tin là như thế; việc bảo vệ chủ nợ là rất cần thiết và có trường hợp chủ nợ có hoàn cảnh tương tự cũng nhận được tiền trả nợ nên việc cho phép người mắc nợ từ chối thực hiện trả nợ là bất chính hoặc không công bằng; v.v (Tham khảo phán quyết 2011Da36091, Tuyên án ngày 13 tháng 10 năm 2011 tại Tòa án Tối cao Hàn Quốc,).

b) Giả sử, ngay cả khi thời hiệu của quyền tố tụng bồi thường thiệt hại của nguyên cáo đã hết hạn sau 5 năm, nhưng nếu đối chiếu với các trường hợp hay lý do như ở phần 3 mục a từ j~q, việc bị cáo chủ trương đã hết thời hiệu tố tụng và từ chối thực hiện bồi thường thiệt hại về hành vi bất hợp pháp đối với nguyên cáo là bất chính và được xem là lạm dụng quyền lợi, đi ngược  lại với nguyên tắc thiện chí, trung thực, vì thế sẽ không được chấp nhận.


E. Phạm vi bồi thường thiệt hại

1) Pháp lý liên quan

Khi tòa án tính toán tiền bồi thường do hành vi bất hợp pháp gây ra, việc cân nhắc đến tình hình của nạn nhân bao gồm tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, tài sản và điều kiện sống, mức độ đau đớn do thiệt hại, mức độ lỗi của nạn nhân và cả tình hình của phía người gây hại như mức độ cố ý, lỗi của người gây hại, động cơ, nguyên nhân của hành vi gây hại, tình trạng tài sản, địa vị xã hội, tuổi tác, thái độ của người gây hại sau sự việc v.v là phù hợp với nguyên tắc bồi thường thiệt hại, được gọi là chịu trách nhiệm công bằng trước thiệt hại. (Tham khảo phán quyết 2007Da77149 tuyên án ngày 24 tháng 4 năm 2009 tại Tòa án Tối cao Hàn Quốc).

Khi tính toán tiền bồi thường sau một thời gian dài từ lúc xảy ra hành vi phạm pháp đến khi kết thúc tranh luận, nếu có sự thay đổi đáng kể chẳng hạn như giá trị tiền tệ giữa thời điểm kết thúc tranh luận so với thời điểm xảy ra hành vi phạm pháp thì số tiền thiệt hại do trì hoãn của số nợ phải bồi thường do hành vi phạm pháp gây ra phải được xem là một ngoại lệ và được tính từ ngày kết thúc tranh luận ở phiên xét xử xác minh sự thật - thời điểm được lấy làm chuẩn để tính tiền bồi thường. Những trường hợp ngoại lệ mà tiền thiệt hại do trì hoãn trong việc trả nợ bồi thường do hành vi phạm pháp phải được tính từ ngày kết thúc tranh luận trong phiên xét xử sự thật vụ việc như thế này Trong trường hợp tiền bồi thường thiệt hại chậm trễ do hành vi bất hợp pháp được coi là phát sinh từ ngày kết thúc cuộc tranh luận điều tra sự thật như thế này, cần phải xem xét một cách thích hợp lý do trì hoãn việc bồi thường bị để tính toán tiền bồi thường gốc tại thời điểm kết thúc cuộc tranh luận thay vì thực hiện theo nguyên tắc cộng thêm tiền bồi thường thiệt hại tính từ thời điểm xảy ra hành vi bất hợp pháp (Tham khảo phán quyết 2009Da103950 tuyên án này 13 tháng 1 năm 2011 và phán quyết  2018Da224408 tuyên án này 29 tháng 9 năm 2022  tại Tòa án Tối cao).

2) Phán định

Sau khi xem xét mức độ và tính bất hợp pháp của hành vi vi phạm nhân quyền trong vụ việc này, tuổi của nguyên cáo, nội dung và mức độ thiệt hại và đau đớn của nguyên cáo do hành vi bất hợp pháp gây ra, số tiền bồi thường được công nhận trong các vụ án tương tự, sự cần thiết của việc tăng khoản tiền bồi thường vì có sự biến động tương đối lớn của giá cả và giá trị tiền tệ do việc bồi thường bị trì hoãn trong thời gian dài hơn 50 năm kể từ khi hành vi bất hợp pháp trong vụ việc này xảy ra, Tòa án quyết định số tiền bồi thường là 40.000.000 won.

Hơn nữa, tiền bồi thường thiệt hại chậm trễ của trách nhiệm bồi thường cho vụ việc này cần được xem tương ứng với trường hợp đặc biệt, tức sẽ được tính phát sinh từ ngày kết thúc cuộc tranh luận ở phiên xét xử sự thật vụ việc - thời điểm tiêu chuẩn để tính tiền bồi thường.

 3) Kết luận sơ bộ

Về 30,000,100 won mà nguyên cáo yêu cầu trong số tiền bồi thường được công nhận cho phía nguyên đơn, từ ngày kết thúc cuộc tranh luận của vụ việc này, tức là ngày 15 tháng 11 năm 2022 cho đến ngày tuyên bố phán quyết ngày 7 tháng 2 năm 2023 là ngày bị cáo được quyền kháng nghị về phạm vi và sự tồn tại của nghĩa vụ thực hiện bồi thường, bị cáo có nghĩa vụ chi trả 5% /năm số tiền bồi thường thiệt hại theo Luật dân sự quy định, và từ ngày kế tiếp đến ngày hoàn tất bồi thường, bị cáo có nghĩa vụ phải trả tiền bồi thường thiệt hại chậm trễ theo tỷ lệ 12%/năm do Luật đặc biệt về xúc tiến tố tụng quy định.


5. Kết luận

Yêu cầu của nguyên đơn có lý do trong phạm vi công nhận trên nên được công nhận, các yêu cầu còn lại bị bác bỏ vì không có lý do và phán quyết cuối cùng giống như phần kết luận ở đầu phán quyết.

                    Thẩm phán           Park Jin-soo


[Trang riêng biệt 1]


Danh mục pháp lệnh Việt Nam


1. Luật dân sự Việt Nam Điều 598
2. Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước Việt Nam, Điều 2, Điều 3
3. Hiến pháp Việt Nam Điều 30 và Điều 48
4. Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam Điều 465
5. Luật tố tụng hành chính Việt Nam Điều 299

 

[Đính kèm 2]

 

    Phần về tác chiến của Đại đội 1 liên quan trong sơ đồ tác chiến Quái Long 1, đính kèm trong Chiến sử của quân đội Hàn Quốc phái binh đến Việt Nam

  

Bộ phận tác chiến của Đại đội 1 vụ việc này